Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Tòan Dân cả Nước đồng hành cùng Hà Nội Sài Gòn
Phản đối bọn bành trướng Bắc Kinh
Hãy tự hào với Truyền thống Cha ông !
Tổ Quốc hay là Chết ? ? ?
Việt Nam! Việt Nam!
Hoàng Sa + Trường Sa là của Việt Nam !
Hoàng Sa + Trường Sa là của Việt Nam !
Đả đảo Trung Quốc ! Đả đảo Trung Quốc!
Đồng bào ơi !
Hãy xuống đường đi thôi !
Người Hà Nội hào hùng bất khuất !
Hãy xuống đường biểu lộ Tình yêu Đất Nước !
Ôi Hà Nội Trái tim của cả Nước !
Đất Thiêng Ngàn năm bất khuất hào hùng vừa thức tỉnh lại rồi sau 66 năm !
Hà Nội ơi ! Hãy mạnh mẽ lên !
Người Hà Nội hãy tiến nhanh lên !
Người Sài Gòn phóng khóang bao dung !
Hãy xuống đường biểu lộ Tình yêu Dân tộc !
Ôi Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông !
Hòn Ngọc Viễn Đông vừa thức tỉnh lại rồi sau 36 năm !
Sài Gòn ơi ! hãy mạnh mẽ lên !
Người Sài Gòn hãy tiến nhanh lên !

Văn tế biểu tình

(blog bọ Lập)

Hỡi ôi!
 Hải đảo- Biển Đông; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công đèn sách, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận chống Tàu, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Nhà báo nhà văn; giáo sư tiến sĩ.
Chưa quen tụ tập, đâu biết biểu tình; chỉ nghiên cứu sinh, ở trong trường bộ.
 Cầm bút nghiên, cầm đèn sách, tay vốn quen làm; tập phản đối, tập đấu tranh, mắt chưa từng ngó.
Tiếng hải tặc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi bốn tốt vấy vá đã ba năm, ghét nhu nhược như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy ngư dân bị chấn lột, muốn tới ăn gan; ngày xem tàu Hải giám chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Biển Đông chủ quyền sáng rõ, há để ai bịa đặt lưỡi bò; hai quần đảo lớn của ta, đâu dung lũ cướp ngày chiếm chỗ.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức biểu tình; chẳng thèm đắp tai cài trốc, chuyến này quyết giương cao cờ, biểu ngữ.

Khá thương thay:
Vốn chẳng phải thanh niên trai trẻ, theo dòng phản đối đấu tranh; chẳng qua là tiến sĩ, giáo sư, mến nghĩa xuống đường đi bộ.
Mấy chục ông nhân sĩ, nào đợi tập rèn; vài trăm chú sinh viên, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh cờ đỏ, nào đợi mang học vị học hàm; trong tay cầm biểu ngữ, băng rôn, chi nài sắm huân chương, giải thưởng.
 Biểu ngữ viết bằng than đen mực đỏ, vạch mặt chỉ tên bọn hải tặc kia; băng rôn dùng bằng tấm vải thô, phản đối lũ bá quyền nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, cùng nhau lướt tới, cảnh sát cũng như không; nào sợ lính cơ động đám nhỏ, đám to, dấn bước xông lên, liều mình như chẳng có.
Kẻ hô vang, người hét ngược, làm cho Khương Du, Chiêu Húc hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ em Phương Nga líu lưỡi.
Ôi !
Những lăm Nhà nước đồng thanh; đâu biết biểu tình vội bỏ.
Một chắc chủ quyền rằng chữ quyết, nào hay bốn tốt bọc chữ vàng; trăm năm xã tắc ấy chữ thiêng, đâu ngờ chẳng thiêng bằng chế độ.
Đoái đường Điện Biên Phủ cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chốn Bờ Hồ, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà công an vây bắt cho cam tâm; vốn không ai xúi dục đấu tranh, bị đánh đập rủa nguyền cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất biên cương ơn Tiên tổ, tài bồi cho nước nhà ta; Hải đảo- Biển Đông Tổ quốc, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở chốn quan trường, chia dự án, gặm biên cương, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tàu, ở với lưu manh rất khổ.
Ôi thôi thôi !
 Phạm Duy Hiển đau chân dân dìu cõng, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; Nguyễn Quang A bền bỉ giấu hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy, Hồng Kiên lên xe bus, bọn nít ranh gọi ông lão bằng thằng; não nùng thay, Xuân Diện chạy tìm đoàn, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Ôi !
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng ở đảo Hoàng Sa, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở Bản Giốc, Biển Đông, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống vì dân, thác cũng vì dân, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt biểu tình lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nhân sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi thương thay !
Có linh xin hưởng.
(Nhại theo Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu )

LỜI DẠY CỦA CHA ÔNG


 Đất nước bốn nghìn năm
Giặc phương Bắc xâm lăng
Đền đài, sách vở thành tro bụi
Đầu rơi, máu chảy ròng ròng !

Đất nước một trăm năm
Giặc phương Tây xâm lăng
Nhà cửa, ruộng vườn tan nát
Thây phơi đầu bãi, cuối sông...

Đọc những trang sử hào hùng
Xin tạc dạ ghi lòng lời dạy của Cha ông
Dù " một thước núi, một tấc sông..."
"Phải kiên quyết tranh biện" đến cùng
"Chớ cho họ lấn dần"
Nếu ngươi đem làm mồi cho giặc,
thì phải tội tru di (*)

Đất nước đang lâm nguy !
Trên biên giới và ngoài biển đảo
Lũ giặc kia đang xâm lấn dần
Vì cả tin nên bị đánh tráo nỏ thần
Nhớ bài học đau lòng Mỵ Châu - Trọng Thủy

Cha Ông suốt bốn ngàn năm bền gan vững chí
Để núi sông, bờ cõi vẹn toàn
Cho hôm nay con cháu đàng hoàng
"Một dãi đất phương Nam hùng cứ" (**)

Máu con Lạc cháu Hồng đã thấm từng trang sử
" Một thước núi, một tấc sông, chớ cho họ lấn dần... !"
Xin tạc dạ ghi lòng
Lời dạy của Cha ông !